NGŨ SẮC QUÁN
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

TÂM HẠNH TỪ BI HỶ XẢ - HT. Thích Thanh Từ (NXB Tôn Giáo)

Go down

TÂM HẠNH TỪ BI HỶ XẢ - HT. Thích Thanh Từ (NXB Tôn Giáo) Empty TÂM HẠNH TỪ BI HỶ XẢ - HT. Thích Thanh Từ (NXB Tôn Giáo)

Bài gửi  THICHTUTAI 18/8/2011, 16:14

Trích TÂM HẠNH TỪ BI HỶ XẢ - HT. Thích Thanh Từ giảng (NXB Tôn Giáo)
(Tái bản lần thứ ba)
Hà Nội - PL: 2553 - DL: 2009

TÂM HẠNH TỪ BI HỶ XẢ


Hầu hết Phật tử ai cũng biết tu theo đạo Phật là đạo từ bi, nhưng chưa biết thế nào là Từ thế nào là Bi. Theo chữ hán giải nghĩa thì Từ là ban vui, Bi là cứu khổ. Vậy ban vu cứu khổ là làm sao?

Từ bi là tình thương hoàn toàn vị tha, còn tình thương vị kỷ thì gọi là ái kiến. Nhớ, cũng tình thương mà một bên là từ bi, một bên là ái kiến. Từ bi là nhân đưa con người tới an vui giải thoát. Ái kiến là nhân trói buộc đưa con người tới trầm luân sanh tử.

Tôi xin hỏi tất cả quý vị có mặt ở đây, các vị có tâm từ bi không?

Chắc ai cũng có tình thương hết nhưng tình thương đó không biết vị tha hay vị kỷ. Nhất là các bà tình thương dồi dào lắm. Khi xem cải lương hay chiếu bóng thấy người trong phim hoạn nạn thì khóc lu bù. Thương người hoạn nạn đó có phải là từ bi không? Dường như là từ bi, nhưng không phải. Hầu hết chúng ta ai cũng có tình thương, nhưng tình thương vị kỷ nhiều hơn là vị tha. Thậm chí ở trong đạo mà tình thương vị kỷ vẫn còn!

Bây giờ tôi giản trạch cho quý vị hiểu thế nào là tình thương vị kỷ, thế nào là tình thương vị tha. Tình thương vị kỷ là tình thương người nhưng vì mình mà thương. Còn tình thương vị tha không phải vì mình mà vì người mà thương.

Ví dụ: Một Phật tử lớn tuổi đi đường xách giỏ nặng, có đứa trẻ cùng đi trên đường xách giùm cái giỏ về tới nhà không lấy tiền công. Phật tử đó nói đứa trẻ dễ thương quá! - Tại sao nó dễ thương? Vì nó xách giùm mình cái giỏ nặng mà không đòi tiền công nên mình thương. Nếu mình đang xách cái giỏ nặng mà nó gởi thêm món gì nặng khoảng một ký nữa thì chắt là dễ ghét. Như vậy chúng ta thương người vì người làm lọi ích cho mình nên mình thương. Có người rất chân chính ngay thẳng mà họ không làm lợi ích cho mình thì mình không thương. Ví dụ Phật tử buôn bán mỗi năm phải đóng thuế năm nghàn. Đến kỳ nộp thuế, nhân viên thuế vụ thâu đúng năm theo luật đình không bớt đồng nào thì chú ấy không dễ thương. Người làm đúng luật mà không có lợi ích cho mình thì mình không thương. Ngược lại người làm lợi ích cho mình mà sai luật mình vẫn thương. Như vậy, chúng ta đặt tình thương trên bản ngã ích kỷ của mình. Tình thương nầy rất hạn hẹp và trói buộc. Gần nhất là vợ chồng thương nhau cũng là loại tình thương ích lỷ trói buộc.

Xưa lúc đức Phật còn tại thế, một hôm có người ngoại đạo tới hỏi:
- Cồ Đàm, ái là khổ đau hay hạnh phúc?
Phật đáp:
- Ái là gốc của khổ đau.
Người ngoại đạo nghe Phật đáp lắc đầu không chấp nhận. Câu nói nầy của Phật đồn tới vua Ba Tư Nặc. Vua gọi vợ là phu nhân Mạt lỵ, nói:
- Ngài Cồ Đàm nói ái là gốc của khổ đau, trẫm không đồng ý. Như trẫm thương khanh, thương con và thương thần dân là khổ sao?
Phu nhân Mạt Lỵ đã quy y với Phật hiểu đạo lý, bà đáp:
- Xin bệ hạ nghĩ hiện giờ bệ hạ thương thiếp. Giã sử thiếp thương người đàn ông khác thì bệ hạ sẽ làm gì?
-Sẽ giết.
Như vậy,mình thương người mà người không thương, lại thương người khác thì giết, không phải gốc khổ là gì? Tình thương đó vì mình hay vì ai? - Vì mình nên mất cái mình thích mình liền nổi giận. Thương đó không phải là tình thương vị tha mà là vị kỷ nên khổ.

Lại một hôm vua Ba Tư Nặc đến hỏi Phật:
- Nghe Thế Tôn nói ái là gốc của khổ đau, con chưa hiểu điều đó, xin Thế Tôn giảng dạy:
Phật đáp bằng câu hỏi:
- Ví như dân trong nước có một vùng xảy ra tai nạn chết hết năm mười người. Đại Vương nghe tin có khổ đau lắm không?
- Con thương nhớ không khổ đau lắm.
Phật hỏi tiếp:
- Bây giờ giả sử công chúa con Đại Vương chết, Đại Vương thấy thế nào?
- Con rất đau khổ.
- Tại sao dân chết năm mười người mà Đại Vương không khổ, chỉ một công chúa chết Đại Vương lại khổ?
Vua không trả lời được.

Thường dân chết năm mười người vua chỉ thương chút thôi mà không khổ. Vì đối với dân nhà Vua không có ái nên không khổ, còn đối với công chúa nhà vua có ái nên có khổ. Vậy quý vị có thấy ái là gốc của đau khổ chưa? - Dạ thấy. Đức Phật nói sanh tử trong mười hai nhân duyên, đầu mối là Vô minh. Trong đời sống hiện tại ái và thủ là tên khác của Vô minh đưa con người tới luân hồi sanh tử. Vậy ái là gốc của luân hồi. Tất cả chúng ta có ái không? - Có. Muốn hiểu rõ từ bi chúng ta phải hiểu rành ái và từ bi khác nhau ở chổ nào.

Từ bi là vì người khổ mà thương, thương không cột ràng. Ví dụ thấy người mù, người bệnh phong nghèo đói xin ăn, quý vị thương người tật nguyền giúp họ năm ba trăm cho đỡ khổ. Về sau nghe họ chết, tuy có cảm thương nhưng không khổ. Vì đó là lòng từ bi vị tha không trói buộc. Còn nếu con cháu trong nhà chết, quý vị than khóc xỉu lên xỉu xuống, có người muốn tự tử chết theo nữa. Vì tình thương này là ái, có trói buộc. Ái càng nặng thì khổ đau càng nhiều.

Lại có trường hợp ái người ta mà không được như ý thì trở thành sân hận thù hằn. Chẳng hạn trong tình thương vợ chồng, nếu chồng hay vợ thay đổi tình cảm họ có thể giết nhau. Như vậy thương mà giết hại thì có thật thương không? Nếu thật thương đau nỡ hại, mà hại đâu thật thương! Đây là tình thương của ích kỷ. Vì thương ích kỷ cho nên hại nhau. Do đó nói thương hại là như vậy. Nếu thương vị tha không trói buộc thì không hại ai. Thấy người nghèo khổ thương, giúp là giúp, không bắt họ làm cái gì cho mình hết, họ không cần nữa thì thôi không giúp. Họ đến với mình không được, họ đến với ai cũng tốt. Vì đây là lòng thương của từ bi rộng rãi bao la, vừa làm cho người bớt khổ. Thương mà hết khổ, còn ái thì xiết chặt, nên nếu ái nhiều là khổ nhiều. Chẳng những đau khổ ở đời này mà còn đau khổ ở đời sau. Vì thương ai nhiều thì không muốn xa cách, khi chết sẽ tìm lại nữa , nên trầm luân chết đi sanh lại buộc ràng không dứt.

Lại có những việc làm thoáng thấy như từ bi, nhưng lại vị kỷ. Ví dụ thấy người đói rét hoạn nạn thương giúp đỡ họ, nhưng lại nghĩ mình giúp đở họ mai kia sẽ đền ơn lại. Trường hợp này không phải là từ bi. Lại có nhiều Phật tử có tâm tốt thấu người tật nguyền ăn xin, sẵn sàng đem tiền ra giúp đỡ, nghĩ giúp đỡ cho có phước sau này mình hưởng. Trường hợp này chưa thật là từ bi. Vì cho mả có hậu ý trong mong lợi mình về sau. Từ bi thương người giúp người mà không chút trông mong người đền trả, không mong lợi cho mình mai sau. Tâm từ bi như thế mới rộng lớn thênh thang.

Ngày xưa tôi có viết một bài đăng báo Từ Quang tựa là "Nhân hoa mà quả cỏ". Mới nghe qua ai cũng ngạc nhiên hết. Câu chuyện nầy có liên hệ đến từ bi và ái mà chúng tôi đang nói. Năm đó tôi bịnh, lên Bảo Lộc cất một cái am vừa tu vừa dưỡng bịnh. Lúc đó có mấy Phật tử tới thăm, tặng tôi những một hoa Đà Lạt để tôi trồng. Vì thấy tôi mới cất thấy cũng quạnh hiu, trồng hoa cho nó tươi đẹp. Tôi nhận hột hoa, xới một khoảng đất, rải hột, hằng ngày tưới nước đều đều. Khoảng một tuần thây nó lên lấm tấm, tôi nghĩ mầm hoa mạnh. Tôi tiếp tục tưới, khoảng nữa tháng sau tôi nhìn kỹ thấy toàn cỏ không có cây hoa nào cả. Tôi thắc mắc, rõ ràng mình rãi hột hoa sao lại lên cây cỏ? Tôi truy nguyên ra mới thấy đàn kiến bò vô liếp đất tha hết hột hoa ra đi rồi mà tôi không hay, cứ tưới nước nên cỏ nó lên.

Sở dĩ tôi viết bài:"Nhân hoa quả cỏ" là vì ngày xưa tôi đi giảng có một Phật tử đến than với tôi rằng: Gia đình em chồng con chết hết để lại mấy đứa cháu, con đem về nuôi cho ăn học, nhưng khi lớn khôn sao nó không thương con mà có vẻ phản bội lại. Bà lại thắc mắc tại sao chúng con làm việc tốt như vậy mà kết quả chưa được tốt.

Sau đó tôi tìm hiểu qua mấy đứa cháu thì nó kể:"Thực ra tụi con nhờ người bác nuôi, nhưng nuôi thì nuôi vậy. Mỗi buổi sáng đi học, con bác thì bác cho hai đồng, tụi con thì một đồng, những việc nặng nhọc khó khăn thì bác giao cho tụi con làm, việc nhẹ dễ thì dành cho con bác. Chớ tới đi chơi hay cái gì bác cũng giành ưu tiên cho con bác, tụi con chỉ được một phần nhỏ thôi".

Hồi nhỏ cha mẹ nó chết nó bơ vơ được bác đem về nuôi thì nó mừng, khi lớn lên nó thấy tình thương của bác không thật, nuôi nó như nuôi đầy tớ, nên nó không thương và còn như phản lại. Quý Phật tử đừng tưởng mình thương đem cháu về nuôi, khi lớn lên nó phải thương mình, nhưng khi lớn lên chẳng những nó không thương mà còn muốn phản nữa là tại sao? Việc này giống như tôi gieo hột hoa, đinh ninh sẽ lên cây hoa, chỉ cặm cuội tưới thôi, mà không canh chừng kiến tha hột đi. Cũng vậy, Phật tử nầy nuôi cháu nghĩ mình có công nuôi nó là có ơn với nó rồi, mà không coi lại tình thương của mình đối với nó có đúng với tình thương của cha mẹ với con không, hay mình vẫn thấy nó là cháu gượng nuôi để nhờ. Chính vì gượng nuôi để nhờ nên nó không biết ơn. Cái thương này chưa thật là thương, vì nuôi mà đòi nó phải trả lại cho mình bằng công sức và xử sự với nó không bằng. Còn thấy con cháu cách biệt quá, nên mất hết tình thương. Nếu con và cháu mình đối xử như nhau thì nó mới kính thương.

Chúng ta giúp người bắt đầu bằng tình thương, nếu không khéo nhìn kỹ, lâu ngày sẽ bị lệch mà không hay. Cái gì làm cho lệch? - Cái ích kỷ của bản ngã khiến cho cái của ta thì ưu việc sung túc hơn, cái không thuộc về ta thì đặt phần kém. Đó là tình thương không phải từ bi mà là thứ tình thương có xen lẫn ích kỷ của bản ngã. Nếu có bản ngã dự vào thì tình thương thể hiện qua việc làm trước sau gì cũng vị ngã. Còn tình thương do từ bi thì không ích kỷ, thương người, giúp cho người được an vui mà không mong cầu đòi hỏi cái gì hết.

TÂM HẠNH TỪ BI HỶ XẢ - HT. Thích Thanh Từ (NXB Tôn Giáo) Images?q=tbn:ANd9GcTHLg6BqyIeVdFu2Dx4hdgrccgNnGAj2EzEJ7aJC_FMXS9d0Ef9
Bây giờ nói đến hạnh từ bi. Trong các vị Bồ tát, Bồ tát Quán Thế Âm biểu hiện cho hạnh từ bi.
Ngài là nữ hay nam mà tượng nào cũng thấy dáng người nữ và được gọi là mẹ Quán Thế Âm? - Bồ tát không có nam nữ, đây là hình ảnh biểu trưng cho đức từ bi, tình bao la không bến bờ. Mẹ hiền (nữ) thương con không bờ bến, dù cho nó có thói hư tật xấu tới đâu cũng thương, nên gọi là từ mẫu. Mà từ mẫu thì gần với hạnh từ bi, cha ít gọi là từ phụ mà gọi là nghiêm phụ. Cho nên con cháu ngỗ nghịch thì cha trị, chớ mẹ ít trị được. Vì cha thì nghiêm, con cháu hu hỏng cha quở phạt, còn mẹ thì an ủi vỗ về, nên gọi là từ mẫu. Vì vậy, tượng Bồ tát Quán Thế Âm tượng trưng cho từ mẫu (người nữ).

Trong kinh Phổ Môn có đoạn:"Ưng hiện đồng nam thân đắc độ giả, tức hiện đồng nam thân đắc độ. Ưng hiện đồng nữ thân đắc độ giả, tức hiện đồng nữ thân đắc độ". Tùy chúng sanh muốn hiện thân nào thì Bồ tát Quán Thế Âm hiện thân đó để độ. Như vậy Bồ tát Quán Thế Âm không nhất là nam hay nữ. Nhưng vì hạnh từ bi gần gũi với từ mẫu nên tạc tượng người nữ, tay trái cầm cái bình, tay phải cầm cành dương.

Ngài cầm cái bình và cành dương để chi vậy? Có phải chúng sanh khổ, lạy mẹ Quán Âm, Ngài nhúng cành dương vào nước rưới cho mát mẻ hết khổ không? - Không. Bình nầy tên là tịnh bình chứa nước cam lồ. Trong kinh Phổ Môn có câu:"Nam Mô Thanh Tịnh Bình Thùy Dương Liễu Quán Thế Âm Như Lai cam lồ sái tâm nguyện". Sái tâm nguyện là nguyện rưới nước cam lồ cho mọi người được mát mẻ. Đó là hình ảnh tượng trưng.

Bình thanh tịnh tượng trưng cho người giới đức thanh cao trong sạch, nước cam lồ tượng trưng cho lòng từ bi. Phật tử thọ năm giới và giữ năm giới thanh tịnh mới có lòng từ bi. Tại sao? Vì nếu phạm giới sát sanh thì không có lòng từ bi. Nếu phạm giới trộm cắp cũng không có lòng từ bi. Nếu phạm giới tà dâm cũng không có lòng từ bi. Nếu phạm giới uống rượu cũng không có lòng từ bi. Như vậy năm giới mà phạm thì lòng từ bi không thể phát khởi. Muốn có lòng từ bi phải giữ giới thanh tịnh. Thế nên muốn có lòng từ bi trong sáng thì phải có giới đức trong sạch. Quý vị kiểm tra lại coi những giới mình đã thọ có giữ được thanh tịnh không? Nếu thanh tịnh thì mới phát lòng từ bi được, nếu có một giới không thanh tịnh thì chưa từ bi. Chẳng hạn vì mình mà giết hại sinh vật, vì mình mà trộm cướp của người, vì thú vui của mình mà làm điều xằng bậy làm khổ người, sao gọi là từ bi được? Những người làm những việc đó điều không có từ bi. Muốn thực hiện hạnh từ bi đều tiên quyết là phải giữ giới. Giữ giới trong sạch tức là có bình thanh tịnh mới chứa được nước cam lồ.

Nước cam lồ là gì? Cam là ngọt, lồ đọc đúng là lộ là sương, ban đêm sương đọng lại thành nước vừa trong sạch vừa mát mẻ vừa ngọt ngào. Trong sạch mát mẻ ngọt ngào là đức tánh của từ bi. Nếu người có tình thương hoàn toàn vị tha thì tình thương đó hết sức trong sạch, ai khổ thì dùng lời an ủi, dùng phương tiện giúp đỡ. Gặp người có lòng từ bi, kẻ khổ được mát mẻ an ổn, liền hết khổ. Giã sử chúng ta đang giận ai đùng đùng mà người có uy đức có từ bi đến nói những lời chân thật nhẹ nhàng khuyên giải, cơn giận nguội dần chúng ta được mát mẻ an ổn. Thế nên lòng từ bi tới đâu thì con người an vui mát mẻ tới đó. Do đó từ bi rất quan trọng chỉ có nước cam lồ mới đủ sức tượng trưng. Người có lòng từ bi thì sẵn sàng quyên mình vì mọi người, ngược lại nếu vì mình mà quên mọi người là ích kỷ nhất.

Cành dương tượng trưng cho đức nhẫn nhục. Cành dương mềm mại tha thướt, gió thổi chiều nào dương ngã theo chiều đó, có vẻ yếu mềm nhưng không gãy.

Thực hiện hạnh từ bi tiên quyết phải giữ giới, kế đó là nhẫn nhục. Nếu giữ giới mà không nhẫn nhục thì không thể nào thực hiện hạnh từ bi được. Tại sao? Vì những chúng sanh đang khổ là những chúng sanh ít phước dễ bực bội cộc cằn, hay làm điều xằng bậy. Nếu từ bi mà thiếu nhẫn nhục thì thì khó mà giúp đở họ trọn vẹn được. Ví dụ một bác sĩ giỏi trị bệnh điên, có một bệnh nhân tới chữa bệnh, vừa vào phòng mạch họ nổi cơn la lối chưởi bới bác sĩ, có khi còn đánh đập nữa. Nếu bác sĩ thiếu nhẫn nhục, bực tức đuổi bệnh nhân về thì không trị được bệnh cuồng điên cho bệnh nhân. Như vậy một bác sĩ giỏi muốn cứu một bệnh nhân điên cuồng phải nhẫn nhục chịu đựng cơn la lối chưởi bới đánh đập mới cứu được họ. Nếu không thì lòng từ bi không thể thực hiện được. Đây là điều kiện hết sức thiết yếu.

Các Phật tử làm việc từ thiện xã hội cũng vậy. Có những người tật nguyền quý vị muốn giúp họ. Hiện tại quý vị có một ngàn đồng thấy mười người xin ăn, đổi mười tờ một trăm đồng để cho mỗi người một trăm. Cho được năm người, thì những người được cho trở lại xin nữa. Nếu quý vị có đức nhẫn nhục thì nhỏ nhẹ khuyên họ nên nhường cho những người chưa có tiếp tục chia cho năm người còn lại, thì việc giúp đỡ đó mới vuông tròn. Nếu nỏi nóng bỏ đi thì không giúp được họ. Quý vị thấy chỉ một việc nhỏ mà thiếu đức nhẫn nhục thì không làm được huống nữa là việc lớn.

Xưa khi Phật còn tại thế, lúc bấy giờ Ngài còn trẻ đi giáo hóa tới một lạng nọ. Làng nầy có vợ chồng Bà-la-môn là một thầy tướng số giỏi, giàu sanh được một cô con gái thật đẹp. Ông kén rễ, muốn chọn một chàng rễ có tướng tốt, tương lai sẽ làm vua một nước lớn. Bấy giờ Phật khất thực đi ngang qua nhà ông. Ông thấy Phật có 32 tướng tốt ở thế gian tương lai sẽ thành chuyển luân Thánh Vương cai trị cả chư hầu. Phật khất thực xong đến cọi cây ngồi thọ trai. Bấy giờ ông rũ bà ra để chỉ những tướng tốt của Phật cho bà xem. Ông nói với Phật:
- Tôi có một đứa con gái đẹp lắm, tôi muốn gã cho ông.
Phật đáp:
- Con gái ông đẹp nhưng với mắt tôi chỉ là cái đãy da hôi thối, tôi không nhận.
Nghe Phật nói vậy ông Bà-la-môn chán nản về thuật lại câu chuyện cho con gái ông nghe. Cô ta là người tự cao, hãnh diện vì sắc đẹp của mình, nay bị Phật nó là cái đãy da hôi thối, tự ái, lòng sân hận nổi lên thề sẽ trả thù Phật. Thời gian sau cô được một ông vua kén làm hoàng hậu. Bấy giờ Phật vô tâm đi giáo hóa ở nước bà. Hoàng hậu được tin Phật tới xứ mình. Bà liền thực hiện việc báo thù, bèn tập trung đám côn đồ du đãng lại vây đón đường Phật chửi mắng thậm tệ. Họ mắng chửi quá, Tôn giả A Nan không chịu nổi bèn nói:
- Thưa Thế Tôn, chúng ta hãy đi nơi khác.
Phật hỏi:
- Đi đâu, A Nan?
- Đi nơi nào mà con người không đối xử thậm tệ như thế nầy.
- Giã sử chúng ta đi nơi khác, họ cũng đối xử thậm tệ như thế này nữa thì phải làm sao?
- Nếu họ đối xử thậm tệ nữa thì chúng ta về Xá Vệ, Ma Kiệt Đà, Ca-tỳ-la-vệ, nơi mà Thế Tôn đã giáo hóa.
- Này, A Nan, giã sử có một thầy thuốc giỏi, trước nhà để bảng:"Tôi chỉ trị cho những người bệnh nhẹ, người bệnh nặng hãy đi nơi khác" có được không?
- Thưa Thế Tôn không, thầy thuốc giỏi thì phải trị cho người bệnh nặng.
- Cũng vậy, người ở Xá Vệ, Ma Kiệt Đà... đã được ta giáo hóa rồi họ không còn mê muội xấu ác nữa. Những người ở đây họ còn mê muội cần sự giáo hóa của ta.

Tôn giả A Nan im lặng, những người mắng chửi Phật nghe Ngài nói vậy cảm động không chửi nữa, bèn nói:
- Cồ Đàm hãy ở lại đây giáo hóa, chúng tôi cần sự giáo hóa của Ngài.
Chúng ta thấy, đã thành Phật rồi, mà Ngài còn bị mắng chửi đối xử tệ bạc. Nhưng Ngài từ bi muốn giáo hóa những người này, nên Ngài chấp nhận sự chửi mắng của họ mới giáo hóa họ được. Có lòng từ bi mà thiếu đức nhẫn nhục thì không thể thực hiện được hạnh từ bi. Vì vậy phải có cành dương mới rưới được nước cam lồ. Tăng Ni và Phật tử có lòng từ bi cứu giúp mọi người phải lập đức nhẫn nhục mới thực hiện được hạnh từ bi, bằng không chỉ nói suông. Người nóng nảy dể giận dể hờn thì không thể nào thực hiện được hạnh từ bi. Muốn thực hiện được hạnh từ và được gọi là từ mãu thì phải nuôi đức nhẫn nhục chịu mọi cực khổ, chịu mọi khó khăm mới làm lợi ích cho người được. Không phải mang lòng từ bi đến với đời được mọi người đón rước kính nể. Làm lợi cho người có khi họ xử tốt có khi họ xử tệ, lòng mình vẫn phải làm được.

Tôi xin hỏi các quý vị lạy Bồ tát Quán Thế Âm cầu Ngài cứu độ cái gì? Cầu Ngài rưới nước cam lồ cho mát mẻ cho hết phiền não, hay theo hạnh từ bi của Ngài để chúng ta giữ giới và nhẫn nhục để thực hiện hạnh từ bi của Ngài? Hạnh từ bi không thể nói suông. Làm việc từ thiện mà không giữ giới hay thiếu nhẫn nhục thì không bao giờ làm được. Cho nên học Phật pháp chúng ta phải nắm cho được cái căn bản, phải nắm vững từng phương tiện ban đầu cho đến cuối cùng. Nếu phương tiện ban đầu không biết thì phương tiện cuối cùng không thể thực hiện được. Vậy qua hình ảnh Quán Thế Âm Bồ tát, chúng ta ai cũng có thể thực hiện hạnh từ bi. Nhưng muốn thực hiện được phải giữ giới thanh tịnh và tu hạnh nhẫn nhục.

Bây giờ tới tâm hỷ xả. Hỷ là vui, xả là bỏ. Hỷ xả có dễ hơn từ bi không? Hiện tại quý vị vui ít mà buồn nhiều là tại sao? Vì ngồi lại nhớ giận người này, buồn người kia trách người nọ. Giận buồn trách nên nét mặt không vui. Nếu không buồn giận ai hết thì nét mặt vui tươi an ổn. Người đời lòng thương chứa chấp cái tốt xấu. Cái tốt là mình giúp ai hay ai giúp mình cũng nhớ, cái xấu là mình giúp người bị người xử tệ hay vô cớ mà người ta sân giận ngây oán thù với mình cũng nhớ và nhớ nhiều nhất. Thế nên ngồi lại nghĩ nhớ lung tung. Nhớ những người mình đã ban ơn giúp đở nay họ bội bạc rồi buồn giận than trách. Nhớ người hung hăng vô cớ gây tai họa cho mình rồi sanh bực tức sân giận. Cả ngày buồn nhiều hơn vui. Nếu giúp đở người, làm việc tốt cho ai, xong rồi xả liền không chứa chấp thì an ổn vui tươi. Còn chứa chấp là còn nhớ công mình giúp họ, nếu họ quên ơn phản bội thì buồn giận. Làm xong xả liền thì không buồn giận ai cả. Đó là cái xả thứ nhất.

Cái xả thứ hai là xả phiền não, giận hờn, oán ghét. Các vị có mặt ở đây trong lòng các vị có giận oán ghét ai không?
- Chắc không nhiều cũng ít, ít ai không có lắm. Do chứa những thứ đó trong lòng nên mỗi lần nhớ lại là bực bội buồn giận. Mỗi ngày nhớ khoảng mười người mỗi người chừng 15 phút là phiền não 15 phút, mà mười mười lần như vậy hết mấy tiếng đồng hồ phiền não. Do chứa chấp phiền não trong lòng nên vui ít buồn nhiều. Ở đây có ai suốt ngày bình tĩnh không có phiền não bực bội không?
- Có mà ít. Nhớ xả hết là an vui, không xả là không vui.

Tất cả quý vị có mặt ở đây có ai muốn đời mình tối tăm buồn khổ không? Hay muốn lúc nào đời mình cũng tươi sáng an lạc ai thấy cũng mến thương? Chắc ai cũng muốn an vui, nhưng lại chứa những niệm phiền giận thì làm sao vui được! Muốn không phiền giận thì phải xả hết niệm oán ghét cố chấp trong lòng thì được an ổn vui tươi. Nhưng mà thế gian quý bà có cái giỏi nhớ dai, giận ai nhớ hoài không quên, có bà nói tôi giận chị đó hai mươi năm rồi chưa quên. Mới nghe thấy như nhớ giỏi nhưng không ngờ hai mươi năm đó là hai mươi năm đau khổ. Vì chứa trong lòng, mỗi lần nhớ tới chị đó là mỗi lần bực bội giận tức, mà giận tức là khổ, lại còn làm khổ lây cho người khác nữa. Ví dụ do cái duyên nào đó chợt nhớ hình ảnh người mình giận, bất chợt con cháu tới thưa hỏi công việc trả lời cộc lốc làm cho nó buồn lây. Vì trong lòng đang phiền giận làm sao nói nhẹ nhàng vui vẻ được. Lòng bực bội không chỉ có ở ban ngày mà ban đếm lúc ngủ ngon giấc giựt mình thức dậy nhớ đến người mình giận thì trằn trọc mất ngủ. Người đời quên ăn mất ngủ là tại chứa chấp phiền giận. Bây giờ buồn giận ghét thương bỏ hết. Ai chứa nó là dại, vì chứa nó như chứa thuốc độc trong bụng vậy. Biết nó là độc thì xổ ra mới hết. Không xả được thì khổ dài dài. Khổ đau là tại mình cố chấp không chịu buôn xả thương ghét buồn giận. Phật dạy phải hỷ xả hết, đừng chấp cái gì cả. Nếu chấp giữ chẳng những tai họa ở đời này mà đời sau còn khổ nữa. Vì khi chết niệm thương ghét đó chứa nặng trong lòng, lúc thọ thân sau nó chiêu cảm gặp lại. Chính cái thương nhiều hay ghét nhiều là động cơ để gặp lại nhau, rồi theo ân oán mà tiếp tục trả vay gây khổ cho nhau nữa. Thế nên trong gia đình có những đứa con rất mực hiếu thảo, lại có những đứa con ngỗ nghịch phá tán gia bại sản là tại sao? Tại hạt giống thương ghét nầy đây. Thương nhau nhơ nhau tìm gặp nhau đối xử tử tế. Ghét nhau tìm gặp nhau đối xử tệ bạc với nhau. Trong Kinh Pháp Hoa Bồ tát Thường Bất Khinh đến nói:"Tôi không dám khinh các Ngài vì các Ngài sẽ thành Phật". Nghe Ngài nói như thế có người hoan hỷ, nhưng lại có người không bằng lòng dùng gậy gộc đánh đập Ngài. Tuy bị đánh đập, Ngài chạy xa xa cũng nói:"Tôi không dám khinh các Ngài vì các Ngài sẽ thành Phật". Về sau người hoan hỷ cũng gặp Ngài ở hội Linh Sơn, người đánh đập cũng gặp Ngài ở hội Linh Sơn. Vì đã gieo duyên với Ngài rồi; kẻ duyên thuận, người duyên nghịch.

Sau khi chết tái sanh quý vị có muốn gặp lại những người mà mình ghét không? - Nếu không muốn thì ngay bây giờ hãy xả bỏ, không chứa chất trong lòng oán ghét người. Nếu còn chứa chất trong lòng thì sao sẽ gặp lại. Có những gia đình có những đứa con ngỗ nghịch phá sản đuổi nó không đi, trái lại những đứa con hiếu thảo lại chết sớm. Tại sao vậy? Vì mấy đứa ân nghĩa với mình ở đời trước, đời này gặp lại trả xong rồi đi. Còn mấy người mình oán ghét nó trả cho hết oán ghét mới đi. Như vậy có ân có oán mới gặp nhau, hết ân hết oán là hết gặp, tâm thanh tịnh là Niết bàn, không còn đi trong sanh tử nữa. Cho nên đức hỷ xả là rất quan trọng, nó đem lại cho chúng ta sự an vui trong hiện tại và mai sau. Hơn thế nữa, buông xả tất cả thì tâm thanh tịnhm, Niết bàn hiện tiền tự do tự tại.

TÂM HẠNH TỪ BI HỶ XẢ - HT. Thích Thanh Từ (NXB Tôn Giáo) Dilac
Bây giời tới hạnh hỷ xả. Trong các vị Bồ tát thì Ngài Di-lặc tượng trưng cho hạnh hỷ xả. Tượng Bồ tát Di-lặc có sáu đứa bé, đứa móc tại, đứa móc mũi, đứa móc miệng,... Mà Ngài vẫn cười tỉnh bơ. Những đứa trẻ đó tượng trưng cho sau đứa giặc: ở mắt, ở tai, ở mũi, ở lưỡi, ở thân, ở ý. Chúng nó cứ quấy phá hoài mà Ngài vẫn thản nhiên cười một cách tự tại, Vì Ngài đã thực hiện được hạnh hỷ xả. Chúng ta có thực hiện được hạnh hỷ xả không? Thí dụ: Nghe khen một câu vừa lỗ tai, lúc đó mắt sáng lên, mũi nở ra là đã mất bình thường, còn nghe chê một câu liền tự ái nổi giận lên đó là đã bị đứa giặc móc lỗ tai làm cho mất bình tĩnh rồi. Còn những đứa giặc ở mắt, mũi, lưỡi... cũng vậy. Chẳng hạn đi trưa về mệt bụng nghĩ sẽ được một bửa cơm ngon nhiều món ăn đặc sản. Nhưngg bữa cơm trưa đó chỉ có rau luộc chấm với nước tương khi ăn nuốt không vô, mệt, lòng bực bội muốn nổi sân lên. Như vậy sáu căn tiếp xúc với sáu trần lúc nào cũng bị chi phối làm cho chúng ta mất tự chủ. Còn Bồ tát Di-lặc thì mặc tình căn trần giao tiếp nhau không ngăn ngại, Ngài tự nhiên cươi hỉ-hả. Vì vậy tượng trưng cho Ngài bằng ông già mập bụng phệ, mặc áo phạch ngực, miệng cười toe toét, không có chút phiền hạ bực bội khi sáu đứa giặc quấy phá cả mắt, tai, mũi, miệng... Đó là Ngài thực hành được hạnh Hỷ xả. Có nhiều vị học đạo nói: Thầy dạy xả tôi cũng xả. Đứa nào hồi trước làm tôi giận nay tôi bỏ. Tuy nói bỏ nhưng khi gặp lại trong lòng vẫn hầm hầm. Nói bỏ thì nói được nhưng khi thực hành thì không làm được. Như vậy chỉ xả ngoài miệng mà chưa thực xả trong lòng. Chúng ta phải thật sự xả để khi gặp người gặp cảnh trái ngược, lòng vẫn ai vui tự tại. Hình ảnh Bồ tát Di-lặc và sáu đứa bé móc mắt móc tai v.v... nói lên hạnh hỷ xả thật sự trong khi đối diện với những cái xúc mà vẫn an nhiên vui vẻ. Người xả được như vậy thì cuộc đời đâu có cài gì làm cho khổ.

Chúng ta ứng dụng được hạnh hỷ xả trong cuộc sống hằng ngày thì cuộc đời thật vui tươi hạnh phúc. Ngược lại người câu mâu cố chấp, chuyện gì cũng muốn thua, lúc nào cũng chực sẵn để đối địch thì bao giờ được an ổn được? Người ta nói nặng mình một câu, mình trả lại hai ba câu; người ta làm khổ mình một, mình trả lại tới hai ba thì làm sao an ổn? Người không có đức hỷ xả thì chính bản thân họ đã khổ mà còn làm khổ lây cho người xung quanh nữa. Sống gần người hay câu mâu cố chấp chúng ta cảm thấy không thoải mái, không vui. Còn ở gần người có tâm hỷ xả chuyện gì cũng hoan hỷ bỏ tay, chúng ta thấy rất thoải mái vui vẻ.

Chúng ta tu là đem nguồn vui cho chính mình, cho mọi người chung quanh. Tu hạnh từ bi, nếu gặp người khổ, thì sẵn sàng cứu giúp là đem nguồn vui đến cho người. Người vui chúng ta cũng nhẹ nhàng vui theo. Hạnh hỷ xả cũng vậy, tuy người làm phiền nhiễu mình, nhưng mình hoan hỷ bỏ qua không có cau có bực bội. Mình vui, họ không làm sao phiền nhiễu mình được. Như vậy hai hạnh từ bi hỷ xả là hai hạnh đem lại sự an vui hạnh phúc cho con người. Chẳng những cho bản thân mình, cho gia đình mình mà cho tất cả chúng sanh nữa. Thế nên Phật dạy chúng ta luôn phải học hạnh từ bi hỷ xả, nhưng quý vị có chịu học đâu! Nếu có từ bi thì từ bi giới hạn, có chiều hướng ái kiến. Hoặc có hỷ xả thì cũng xả chừng mực, chỉ xả với con cháu thôi, chớ người ngoài thì không xả; con cháu làm gì phiền giận một lát rồi bỏ, nhưng người ngoài làm điều gì mích lòng thì nhớ hoài không quên. Như vậy chỉ xả có một chút thôi, chớ không phải xả nhiều. Chúng ta học Phật pháp phải làm sao ngay trong đời này, bản thân chúng ta là những con người hạnh phúc, rồi đem hạnh phúc cho những người chung quanh. Đó là tu,chớ không phải tu là chờ trong gia đình hữu sự hoặc tai nạn khổ sở quá mới tới chùa dâng hương hoa cúng lạy Phật, cầu Phật độ tai qua nạn khỏi. Tai nạn rồi sẽ ăn chay hoặc xuống tóc trả lễ. Quý vị có cầu nguyện vậy không? Xuống tóc có lợi ích gì cho người? Đợi tai qua nạn khỏi mới chịu tu. Khi tai nạn qua rồi, tu trả nợ xong thì đâu vào đó. Tu như vậy là tu hời hợt, người thực tu là phải thực hành hạnh từ bi hỷ xả mới được an vui hạnh phúc cho bản thân mình và giúp mọi người được an vui hạnh phúc. Ngược lại tu hiểu hời hợt như vừa kể, chẳng những không được an vui hạnh phúc mà càng đi chùa càng tu, phiền não càng nhiều. Đi chùa mà phiền não nhiều là tại sao? Tại mình chấp mê quá! Chẳng hạn có một Phật tử khá giả đến chùa trước thầy trụ trì mời uống trà, mình tới sau lúc thầy đang bận bịu quên mời uống nước. Hôm đó đi chùa về buồn trách thầy tu mà trọng nhà giàu khinh nhà nghèo. Lại, một bữa tối đến chùa tụng kinh sám hối, các đứa trẻ nó tới trước đứng trước, mình đi sau đứng sau. Về nhà cũng trách mấy đứa nhỏ đi chùa mà không biết đạo lý gì cả, tụng kinh giám đứng trước mấy cụ già. Đủ thứ chuyện, đi chùa mà cái gì cũng chấp cái gì cũng phiền trách. Đi chùa như vậy càng đi chùa càng phiền não. Thế nên người biết tu là phải tập hỷ xả, bỏ hết không có gì quan trọng. Cái thân của quý vị cũng phải xả bỏ. Nơi thân chúng ta có hai phần xả: một là xả ngoại tài, hai là xả nội tài. Xả ngoại tài là đem tiền bạc, tài sản mà mình có sẵn sàng giúp đở người nghèo khổ, không cần họ biết ơn hay đền ơn. Hoặc đem tài sản hiến vào quỷ công ích làm lợi cho nhiều người không mong cầu lợi lộc cho mình. Xả nội tài hy sinh thân mình để cứu cho người hết khổ. Việc này hơi khó làm, nên ở đay tôi chỉ nói lướt qua, mà đặt nặng phần xả kiến chấp ở nội tâm, cái nầy ai cũng làm được, không tổn hại tiền của, không tổn hại thân thể, nếu thực hiện là có kết quả liền, được nhẹ nhàng an vui tự tại.Còn nội tài thì tùy, ai tu cao thì xả cao, ai tu thấp thì xả thấp, không bắt buộc.

Người chân thật tu hành dù là cư sĩ hay xuất gia biết ứng dụng hạnh tu của Phật dạy qua hình ảnh của chư Bồ tát mà chúng ta thờ kính lễ lạy để nhớ đến công hạnh của các Ngài để thực hành theo. Như thờ và lễ kính Bồ tát Quán Thế Âm là hướng theo Ngài để tu hạnh từ bi, vì người khổ đau đem tình thương đến cho người được an vui. Chớ không phải lại Ngài để Ngài cầm canh Dương rưới nước cam lồ lên đảnh để được hết khổ. Thờ lại như thế là mê tín. Thờ và lại Bồ tát Di-lặc cũng vậy, chúng ta hướng theo Ngài để học và hành hạnh hỷ xả để không còn cố chấp phiền hận, mà sống hoài hào vui tươi với mọi người.

Hôm nay tôi nhắc quý vị học và hành từ bi qua hình ảnh Bồ tát Quán Thế Âm và học hạnh hỷ xả qua hình ảnh Bồ tát Di-lặc. Hai hạnh này quý vị thực hành được chừng hai phần thì quý vị cũng bớt khổ nhiều rồi. Nếu thực hiện được năm phần thì đã là tiểu Thánh chớ không phải thường. Nếu thực hiện được mười phần trọn vẹn thì chính hiệu là Bồ tát lớn. Chúng ta còn đang tu, thực hiện được từ hai đến năm phần đã quá hay rồi. Cái hay này không phải Phật ban thưởng cho chúng ta hết khổ, mà chính chúng ta thực hành theo những hạnh Phật đã dạy qua hình tượng của chư Bồ tát mà chúng ta đang thờ. Vậy tất cả quý vị nhớ để ứng dụng.
Lưu ý: Quý đọc giả nếu thấy cở chữ chưa đủ lớn có thể tăng cở chữ bằng cách: nhấn giữ phím Ctrl và lăn con lăn trên chuột!

>>Đây là đường link tới trang tiểu sử Hòa Thượng Thích Thanh Từ, quý vị có thể click để tìm hiểu thêm




THICHTUTAI
THICHTUTAI
TÍCH CỰC
TÍCH CỰC

Tổng số bài gửi : 131
Join date : 27/05/2011
Age : 31
Đến từ : Can Tho

Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang

- Similar topics

 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết