NGŨ SẮC QUÁN
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

trích LUẬN VỀ NHÂN QUẢ - Thích Chân Quang (III)

Go down

trích LUẬN VỀ NHÂN QUẢ - Thích Chân Quang (III) Empty trích LUẬN VỀ NHÂN QUẢ - Thích Chân Quang (III)

Bài gửi  THICHTUTAI 29/5/2011, 10:12

III-MÔI TRƯỜNG CỦA NHÂN QUẢ
trích LUẬN VỀ NHÂN QUẢ - Thích Chân Quang (III) Thumb_flex-1259329994763251_file

Một hòn đá rớt xuống hồ nước yên lặng, thế rồi những vòng sóng tỏa đi càng lúc càng xa. Mặt nước là môi trường để cho sóng lan tỏa sau khi nhận được kích động bởi sự va chạm của hòn đá.
Không khí là môi trường truyền đi của âm thanh. Nước là môi trường sinh sống của cá. Vật trong suốt là môi trường của ánh sang.
Những gì có biến thiên có thay đổi đều có môi trường của nó và luật Nhân Qủa cũng vậy, cũng có một môi trường để cho một tác nhân biến đổi thành quả báo.
Chị chính đã khóc khá nhiều sau cái chết của đột ngột của anh chính. Hôm anh chính từ nhà đi bộ qua thăm Bác Ba bên kia làng. Anh đã chọn lối đi bên trái thay vì lối đi bên phải và giữa đường một cành cây khô gãy rơi, xuống trúng vào đầu anh. Anh tắt thở khi được đem đến bệnh viện.
Tai nạn của anh được kết thành bởi hai điều kiện, do ý tưởng của anh chọn lối đi bên trái (điều kiện nội tại) và do cành cây khô gãy đúng lúc anh đi ngang ( điều kiện ngoại tại).
Luật Nhân Qủa đã chi phối và tác động khắp nơi, tận trong tư tưởng và trùm phủ nơi vạn vật, ứng hiện nơi loài có trí giác và loài không trí giác, rõ rang nơi từng tâm niệm vi tế và trùm khắp mênh mông trong vũ trụ, nhỏ nhiệm như mũi kim và thênh thang như pháp giới. Môi trường này mắt không thể thấy tai không thể nghe, rờ không thể chạm, không có hình tướng, rất là thanh tịnh vắng lặng, nhưn khi đã khởi tác dụng thì dông bão quay cuồng, quả đất rung chuyển, gió thổi sóng xô, bốn mùa thay đổi. Tốt đẹp thì mưa gió thuận hòa, nắng ấm xuân sang, mùa màng tươi tốt. Xấu xa thì ngập lục bão tố hạn hán khô cằn, cây trồng trơ trụi. Ứng noi vạn hữu thì gọi tên là Pháp tánh, Chân như, nếu cần gọi là Thượng đế nhưng không phải Thượng đế theo quan niệm sai lầm từ trước. Ứng con người cũng thành nhiều tên gọi. Theo tính cách biết rõ Nhân Qủa thì gọi là lương tâm, theo tính cách bất sanh bất diệt (không có đầu cũng không có chấm dứt) thì gọi là chân tâm, theo tính cách sáng suốt liễu tri thì gọi là Trí tuệ, theo tính cách giải thoát thanh tịnh thì gọi là Niết Bàn, theo tính cách thương yêu bình đẳng vạn loài thì gọi là thể Đại bi, theo tính cách vượt khỏi sinh diệt thì gọi là Vô ngã. Chính vì có môi trường kỳ diệu này mà có sự vận hành của Nhân Qủa Nghiệp báo. Nếu không có môi trường kỳ diệu này thì không có sự vận hành của Nhân Qủa.
Nếu người có thể lắng tâm mình đến tột cùng và giác ngộ được môi trường này, thể tánh này sẽ thấy rõ sự vận hành của Nhân Qủa. Có nhiều tu tập Thiền định, tuy có phần định tâm nhưng giác ngộ toàn triệt thể tánh kỳ diệu này vẫn không thấy được đường đi của Nhân Qủa. Phải là bậc giác ngộ viên mãng thể tánh đó mới KHÔNG MƠ HỒ VỀ NHÂN QUẢ.
“Thiền sư Tổ Giác Hoa Nghiêm sau khi triệt ngộ đã làm bài kệ:
Ra rừng như cũ vào bồng hao (2 loại cỏ)
Lưới trời lồng lộng trốn được nào
Ai tin nghiệp duyên không thể trốn
Trở về chẳng sợ nói lời cao”
Nếu ngộ đến chổ thấy không lầm Nhân Qủa mới có thể không còn lúng túng trước sự gạn hỏi của người khác về thiền đạo.
Thể tánh này trùm khắp không gian, tuy có nới tâm một người mà vẫn bao trùm cả pháp giới, tuy rõ ràng tại sát na, mà vẫn phủ tròn cả ba thời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Với người chưa giác ngộ thể tánh này, còn nhìn vanh hữu theo tâm thức dao động, những kiến thức hạn chế trong tập hợp này thì thấy không gian là sai khác. Điểm A không phải là điểm B, lúc 5 giờ không phải là lúc 6 giờ. Nhưng người có tâm thức an định, giác ngộ thể tánh này một cách viên mãng thì có thể thấy thể tánh này hiện hữu nơi điểm A nhưng vẫn rõ ràng tại B, chẳng những riêng tại A và B mà còn đầy đủ cả pháp giới. Dòng thời gian đều đặng trôi chảy nhưng không trôi chảy khỏi thể tánh này, dòng thời gian vô cùng vô tận vẫn nằm gọn trong thể tánh kỳ diệu kia.
Đây là điều mà người ta chưa giác ngộ không thể nào thấy được, không thể nào suy nghĩ tưởng tượng suy nghĩ tới được. Bởi vì sao? Chỉ vì tâm suy tưởng quá nhỏ hẹp hạn chế. Cũng như không thể thấy sô vô tỷ trong tập hợp N chỉ gồm các sô tự nhiên.
Với con mắt phàm tục đầy loạn động như chúng ta, quá khứ là cái gì đã qua mất không tìm thấy được nơi hiện tại, và vị lai là cái gì chưa đến cũng không tìm thấy ở hiện tại. Nhưng người giác ngộ lại thấy rõ được cả quá khứ, hiện tại lẫn vị lai đều nằm gọn trong thể tánh. Tác nhân từ quá khứ trôi trải trong môi trường thể tánh đến hiện tại và vị lai, kết thành quả báo khi duyên đã đầy đủ. Chính vì môi trường thể tánh thong đạt cả tâm và vật nên có những quả báo sinh ra nơi tâm như thông minh trí tuệ, hoặc sinh ra vật nơi mùa màng thuận lợi, hoặc kết hợp vừa tâm vừa vật như người dự định công chuyện lại được hoàn cảnh may mắn để thành công.

Cái dụng của thể tánh rất lớn. người chưa giác ngộ còn si mê tọa các nghiệp, đến khi quả báo thành có thể làm đất sập, núi lở, núi lở, cuồng phong, lửa cháy. Hoặc người tạo thiện nghiệp đến khi quả báo thành có thể gió yên sóng lặng, nắng ấm trời trong, thú dữ quy phục, cây trái tốt tươi, mùa màng thuận lợi. Khi có phước tâm người ta dễ ứng thành những trực giác bén nhạy quyết đoán những công việc mau lẹ chính xác, hoặc đoán ra thủ đoạn của đối phương để đối phó, hoặc ứng ra quy luật để chinh phục loài người. Những nhà lãnh tụ chính trị điều có cái phước này. Tuy nhiên đó là dụng lực theo nghiệp. Đối với người đã giác ngộ đạt được quả báo lớn lao, có thể từ nơi thể tánh này khởi lên những dụng lực phi thường. Đây là dụng theo nguyện. Nhữnh thần thông của Phật và chư vị đệ tử Alahán ghi đầy trong kinh điển đều là dụng lực theo nguyện. Các vị có thể một thân hóa thành nhiều thân, dập tắt một cơn cháy rừng, hóa ra lửa cháy, biến ra nước trôi, thâu ngắn kéo dài không gian thời gian, tùy ý tự tại rất là kỳ diệu.
Có nhiều thể tánh hay chỉ có duy nhất một thể tánh?
Đây là một câu hỏi tế nhị và cần thiết.
Thể tánh này là tịch lặng và Vô ngã.
Bản ngã riêng nhưng vô ngã thì không phải riêng. Tất cả những ai đã thể nhập được thể tánh này thì cùng hòa chung nhau trong tính chất trí tuệ và từ bi. Tất cả đều cảm ứng giao hòa với nhau không còn ngăn cách. Một vị khởi dụng thì các vị khác đều biết rõ. Trong thể tánh này mọi cái riêng rẽ đều vắng bóng. Tuy nhiên, nếu một vị khởi niệm quan sát, khởi công hạnh từ bi vẫn là thuộc về riêng của vị đó mà tất cả vị Alahán, tất cả chư Phật đều biết rõ và hổ trợ. Thể thì không phải riêng, nhưng dụng hạnh thì riêng. Tất cả chư Phật đã nhập Niết Bàn đều trở thành duy nhất.
Chính vì tính chất chung của thể tánh nên có tính chất cộng nghiệp (nghiệp chung).
Người dân Koweik cùng sống trên cái túi dầu và chính phủ phải phát lương cho học sinh vì thu nhập quá nhiều.
Cánh đồng phù sa màu mỡ, sông nước mênh mông nên người dân miền Nam Việt Nam thu được nhiều lương thực.
Cơn bão vừa rồi làm ngập lụt cuốn trôi cả làng ven biển và phá hoại cánh đồng lúa của huyện.
Cơn động đất của Tây Ban Nha làm chết nhiều người và hư hại tài sản khá nặng của dân chúng trong vùng.
Những trường hợp tương tự đều là nghiệp chung của nhiều người. Chính vì các loài sống trên hành tinh này cộng nghiệp nên trăng quay quanh trái đất hơn 29 ngày một vòng, trái đất quay quanh mặt trời nghiêng nghiêng 365 ngày một vòng, các mùa thay đổi như thế, không khí nhiệt độ như thế, biển trời mây gió như thế. Tất cả biển, trời, sông, núi, ghềnh thác, đều do nghiệp chung của chúng sanh nơi đây mà hiện thành, chẳng phải ngẫu nhiên bừa bãi.
Cái dụng của thể tánh thật vô hạn. Người có thể giác ngộ được thể tánh rồi thì ứng nơi mình được đầy đủ lương tâm, đầy đủ trí tuệ, đầy đủ từ bi được niềm vui của sự giải thoát ra khỏi mọi ràng buộc khổ đau của nhân thế. Thể tánh này thênh thang như bầu trời tự do mà cuộc sống tâm thức xao động hiện tại của chúng ta như ngục tù nhỏ bé. Trong bài kệ Pali từ nguyên thủy (Tiểu bộ kinh, XLH. DUK II 6, T 37) Phật đã xác nhận thể tánh này với nguyên văn:
"Này các Tỳ Kheo, có cái không sinh, không hiện hữu, không tác thành, không làm ra (không bởi một cái gì làm ra cái đó) (Asarkhatan). Này các Tỳ Kheo nếu không có cái không sinh, không hiện hữu, không tác thành không làm ra thì ở đây không có vấn đề xuất ly khỏi sanh, khỏi hiện hữu, khỏi tác thành, khỏi làm ra (những tướng hữu vi sanh diệt). Do vì, này các Tỳ Kheo, có cái không sinh, không hiện hữu, không tác thành, không làm ra nên mới có vấn đề xuất ly khỏi sanh, khỏi hiện hữu, khỏi tác thành, khỏi làm ra."
Ví như nếu không có vùng trời tự do thì không thể có vấn đề ra khỏi địa ngục. Chính vì thật sự có vùng trời tự do nên mới có thể ra khỏi địa ngục. Nhà ngục chính là tâm thức xao động đầy rẫy những tham lam, sân hận, si mê, kiêu mạn, ích kỷ. Chính những tâm niệm này trói buộc chúng ta trong đau khổ và tội lỗi từ vô lượng kiếp đến nay. Sự giải thoát an vui chỉ thật sự có khi chúng ta mở cửa nhà ngục tham, sân, si để bước ra bầu trời tự do của thể tánh bất sinh bất diệt kia. Người giác ngộ thể tánh đó kinh Nguyên thủy gọi là bậc vô sinh (Arhat) kinh Đại thừa gọi là bậc giác ngộ hữu tình (Boghisatva), Thiền tông goi là Đấng giác ngộ (Buddha).


THICHTUTAI
THICHTUTAI
TÍCH CỰC
TÍCH CỰC

Tổng số bài gửi : 131
Join date : 27/05/2011
Age : 31
Đến từ : Can Tho

Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang


 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết